Dư luận quốc tế Biến_cố_Phật_giáo_năm_1963

Sau khi xảy ra chết người tại đài phát thanh Huế, Đài Tiếng nói Việt Nam của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là cơ quan thông tấn đầu tiên đưa tin về sự kiện biến cố phật giáo 1963.[6]

Cộng đồng Phật giáo đã sử dụng sức mạnh của các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước để tạo dư luận đồng thời liên lạc với toà đại sứ các nước để kêu gọi nước ngoài gây áp lực với chính phủ Ngô Đình Diệm, hỗ trợ cuộc đấu tranh của Phật giáo. Các cơ quan truyền thông quốc tế đăng tải đầy đủ về cuộc đấu tranh của Phật giáo. Báo chí Mỹ đã tạo ra dư luận lớn ở Mỹ khiến chính phủ Mỹ phải xem xét lại quan hệ với chính phủ Ngô Đình Diệm.[41]

Báo New York Times đăng rất nhiều bài bất lợi cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Nhà báo David Halberstam viết chính phủ Ngô Đình Diệm đã bị nhân dân ghét bỏ, và sớm muộn cũng sẽ bị đảo chính và sụp đổ.[42]

Báo Washington Post ngày 19/6/1963 viết: "Cuộc tranh chấp không còn là một biến động mang tính địa phương nữa. Vì chế độ Ngô Đình Diệm liên hệ mật thiết với Hoa Kỳ nên có nguy cơ tín đồ Phật giáo khắp châu Á sẽ có cảm tưởng rằng Hoa Kỳ cũng dung túng sự kỳ thị tôn giáo. Tuy đó là một ý nghĩ sai lầm nhưng vì là đồng minh của một chế độ độc tài và áp bức cho nên Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng."[42]

Việc một số nhà báo Mỹ khi tác nghiệp tại miền Nam Việt Nam bị cảnh sát hành hung được báo chí Mỹ đăng tải.[42]

Thượng nghị sĩ Mỹ Wayne L. Morse tuyên bố ngày 19/7/1963 rằng ông không đồng ý cho Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm.[42]

Báo Le Monde ngày 10/6/1963 viết: "Biến cố ở Huế đã xảy ra do sự đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền, và đã là một cơ hội tốt để sự bất mãn của nhân dân bộc phát. Sự tranh chấp nầy đã lột trần sự cô lập và thất nhân tâm của một nhóm thiểu số Thiên Chúa Giáo được ưu đãi."[43]

Trung Quốc in hàng triệu hình hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu phổ biến tại các nước Á Phi với hàng chữ lớn "Một tăng sĩ Phật giáo hy sinh thân mạng để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm".[43]

Thứ trưởng ngoại giao Nhật Shigenobu Shima tiếp xúc với Đại sứ Việt Nam Cộng hòa để bày tỏ quan ngại về biến cố Phật giáo Việt Nam.[43]

Ngày 30/8/1963, Giáo hoàng Phaulo VI ra thông điệp: "Giáo hoàng đã biểu lộ sự chú tâm và đau đớn theo dõi các biến cố bi thảm đương dày vò nhân dân Việt Nam và sự lo âu của Giáo hoàng ngày càng thêm sâu sắc. Giáo hoàng cầu nguyện để cho tất cả mọi người, trong mối hợp tác khoan dung và trong sự tương kính các quyền tự do chân chính, đoàn kết với nhau để tái lập tương thân và tình huynh đệ."[43]

Trên bình diện quốc tế, “Phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963” hầu như không bị cô lập đối với bất cứ ai. Khắp nơi trên thế giới, từ các cơ quan báo chí, các hãng thông tấn, các tổ chức chính trị,... đến các nguyên thủ quốc gia và cả Liên hiệp quốc, với nhiều hình thức và biện pháp khác nhau đã vạch trần những tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng tình với cuộc đấu tranh chính nghĩa của Tăng Ni và Phật tử miền Nam. Về vấn đề này, trong “The New Face of War”, Malcoln W. Brown viết: “Vụ Phật giáo năm 1963 đã làm chấn động các quốc gia ngoài châu Á kể từ khi xảy ra vụ tự thiêu của Hoà thượng Thích Quảng Đức: Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Thuỵ sĩ, Bỉ, Úc, Đức... Tấm hình tự thiêu của Hoà thượng đã được phổ biến khắp nơi thế giới từ trên bàn giấy của Tổng thống Hoa Kỳ tới văn phòng các lãnh tụ Trung Cộng và chính nước cộng sản này đã cho in ra hàng triệu tấm hình ấy để phân phát đi khắp Á Phi với lời ghi chú: “Một tăng sĩ Phật giáo Việt Nam tự thiêu trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ-Diệm”[2].

Chính nguồn tư liệu từ phía Việt Nam cộng hòa đã thú nhận điều này. Công văn số 43/DK/VP/M ngày 21-8-1963 của Toà đại sứ “Việt Nam cộng hoà” tại Tokyo gởi Bộ trưởng Ngoại giao chính quyền Ngô Đình Diệm tiết lộ “Dư luận Nhật Bản trở nên sôi nổi đối với vấn đề Phật giáo ở Việt Nam. Một số đoàn thể hoặc tư nhân có uy tín đã tiếp xúc thẳng với Thiểm toà để thăm dò tin tức và chất vấn về những biến cố đáng tiếc mới xảy ra; một số khác viết thư gởi điện tín đến Thiểm toà để phản kháng những hành động mà họ cho rằng có tính cách đàn áp Phật giáo ở Việt Nam”[2].

Ở Thái Lan, theo báo cáo của Toà đại sứ “Việt Nam cộng hoà” ngày 2-9-1963 thì “hôm 31-8-1963, một Đại hội đồng Phật giáo đã được triệu tập tại Băngkok để thảo luận về vụ Phật giáo tại Việt Nam. Tham dự phiên họp này có 800 Phật giáo đồ, thuộc các giới cựu bộ trưởng, dân biểu, luật sư, ký giả, đại diện Phật giáo tại Bangkok và 63 trong số 73 tỉnh của Thái Lan, hội Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ, Mã Lai, và cả Hồi giáo cùng Bà La môn (Brah-man) cũng gởi đại diện đến dự họp... Cuộc thảo luận đã diễn ra trong bầu không khí cực kỳ sôi nổi. Ngót hơn 5 tiếng đồng hồ, hơn 20 diễn giả luân phiên nhau lên diễn đàn bày tỏ quan điểm về vụ Phật giáo ở Việt Nam.... phần đông diễn giả đã dùng những lời lẽ chua cay để công kích chính phủ ta... Một số diễn giả, vì cảm tình với ta, đã lên tiếng bênh vực chánh phủ ta nhưng không không được cử toạ hoan nghênh”[2].

Ngay ở Mỹ, nhiều tờ báo, nhiều chính khách công khai đả kich, lên án chính quyền Ngô Đình Diệm. Tờ San Francisco Chinese World cho rằng: “Đã đến lúc chính quyền Hoa Kỳ phải từ giả ông Ngô Đình Diệm. The Chinese World khẩn thành kêu gọi tất cả mọi người Mỹ lên án ông Diệm, một kẻ độc tài của Sài Gòn”. Thượng Nghị sĩ Wayne L. Morse, bang Oregon, thì nói rằng “ông sẽ không đồng ý cho một đôla nào nữa để ủng hộ một chế độ độc ác tàn bạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam”. Dean Rusk, Ngoại trưởng Mỹ, trong cuộc họp báo ngày 16-6-1963, cho rằng Mỹ “không sung sướng gì trước những sự việc xảy ra ở miền Nam”, rằng Mỹ “rất buồn phiền về những sự chia rẽ đang xảy ra ở miền Nam”. Tờ New York Times (19-7-1963) dẫn lời Tổng thống Kennedy: “Sự động chạm giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm với Phật giáo đồ rất có hại cho công cuộc chống Cộng tại Nam Việt Nam”[2].

Đặc biệt, “Vụ Phật giáo” đã được đưa ra thảo luận tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc, và Ông Uthan, Tổng Thư ký Liên hiệp quốc đã gửi đến Ngô Đình Diệm những lời lẽ đầy bức xúc trước chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm: “... Thúc dục bởi những ý tưởng nhân đạo mà toàn thể chúng tôi đều tôn trọng, nhân danh thành phần của đại gia đình nhân loại, tôi thấy có bổn phận gởi tới Ngài, cùng với những lời kêu gọi thiết tha của các nhân tôi”. Ngày 24-10-1963, Liên hiệp quốc đã cử một phái đoàn đến miền Nam để điều tra “Vụ Phật giáo”. Đây được xem như là điểm nút cuối cùng “buộc Mỹ gấp rút thủ tiêu bị cáo, tức chính quyền Ngô Đình Diệm, mà phải thủ tiêu trước lúc Liên hiệp quốc tái nhóm để xét về tờ trình của phái đoàn điều tra, khiến cho cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm nhanh chóng diễn ra”[2].

Rõ ràng, trên bình diện quốc tế, “Phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963” có tác dụng gom mọi người dù khác chính kiến, khác màu da vào cùng một khối, kết tụ được tinh anh của những khối óc và trái tim vì tình thương mà quyết không chịu lùi bước trước bạo quyền. Ngay cả những nhà nước không cùng thể chế chính trị, thậm chí là đối địch nhau, song trước cuộc đấu tranh của Phật giáo miền Nam họ đều cùng đứng chung một trận tuyến chống lại bạo quyền. Điều này làm cho quy mô phong trào vượt hẳn bất cứ phong trào nào đối lập hoặc độc lập với chính quyền Ngô Đình Diệm trước đó. Cũng chính vì vậy, mà trên phương diện học thuật, cho đến tận ngày nay, “pPong trào Phật giáo miền Nam năm 1963”, tiêu biểu là sự hy sinh dũng cảm của Hoà thượng Thích Quảng Đức, vẫn là nguồn cảm hứng bbất tận đối với giới nghiên cứu Đông – Tây. Tiến sĩ Robert Topmiller (Mỹ) viết: “Ngày nay, “ngọn đuốc sống” của Ngài vẫn được nhiều người Mỹ quan tâm nghiên cứu. Đó là một đề tài bất tận đối với khoa học phương Tây”[2].